Theo Thượng tá Nguyễn Anh Tuấn - Phó Giám đốc Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư, Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (Bộ Công an), về mặt xã hội, AI gây lo ngại xâm phạm quyền riêng tư; AI bị lợi dụng để phân biệt chủng tộc, giai cấp, giới tính, dân tộc, gây mâu thuẫn, xung đột gay gắt hơn; Cung cấp thông tin sai sự thật, đánh tráo khái niệm, thay đổi lịch sử, bóp méo sự thật gây xáo trộn dư luận, ảnh hưởng giáo dục và văn hóa.
Là người làm việc trực tiếp với dữ liệu, ông Nguyễn Tuấn Anh chia sẻ, "dù các Bộ, ban, ngành Việt Nam đã phát triển nguồn dữ liệu riêng cho công tác nghiệp vụ, việc tổng hợp, đưa vào phục vụ khai thác, đánh giá còn nhiều hạn chế, đặc biệt là tính chính xác và đầy đủ gần như chưa đảm bảo". Trong khi đó, hệ thống AI chỉ hoạt động tốt khi có dữ liệu đầu vào tốt, nếu dữ liệu đầu vào bị sai lệch hoặc không chính xác sẽ dẫn đến kết quả phân tích của AI không chính xác hoặc dẫn đến những dự báo mang tính “phân biệt đối xử”, thiếu công bằng.
Về mặt pháp lý, chính sách, theo thống kê tại legalnodes.com, có khoảng 33 quốc gia đã xây dựng dự thảo pháp lý về AI nhưng còn hạn chế, chưa có bộ quy chuẩn chung về AI mang tính tổng thể. Các nước chia thành hai trường phái: sửa đổi luật pháp hiện hành và lồng ghép AI vào từng lĩnh vực; Ban hành văn bản pháp luật quy định về AI mang tính tổng thể. Việt Nam đang ở mức tiếp cận và chưa có chính sách, văn bản pháp lý, thể chế cụ thể liên quan đến AI.
Về an ninh mạng, tất cả các hình thức tấn công mạng hiện nay đều có thể ứng dụng AI để tăng khả năng chủ động của kẻ tấn công, gây thiệt hại nặng hơn. Có những hình thức tấn công như qua tệp tin độc hại, mô phỏng, lừa đảo, tấn công từ chối dịch vụ quy mô lớn, qua học máy. Hiện nay, ngoài hệ thống mạng Internet, các Bộ, ban, ngành, địa phương đều có mạng riêng. Đã có những đợt tấn công, truy cập trái phép và AI có thể được ứng dụng để tăng quy mô, mức độ tấn công.
Dùng chính AI để giảm thiểu rủi ro của AI
Qua thực tế quản trị, triển khai CSDLQG về dân cư, đại diện Bộ Công an đề xuất ba giải pháp giảm thiểu rủi ro AI.
Một là, sớm hoàn thiện hành lang pháp lý về AI để đón đầu xu thế, ban hành văn bản quy định về đạo đức trong quá trình phát triển, sản xuất, ứng dụng AI như bảo vệ quyền riêng tư, dữ liệu cá nhân, quyền con người của các đơn vị trong và ngoài nước.
Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, "Việt Nam đã có Nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân nhưng việc áp dụng thực tế chưa đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh, an toàn dữ liệu". Do đó, ông đề xuất có luật dữ liệu hoặc luật bảo vệ dữ liệu cá nhân. Ngoài ra, nên quy định rõ ràng hơn các hành vi phạm tội bằng AI, có quy chuẩn cụ thể về nền tảng kết nối, chia sẻ, trao đổi liên quan đến AI.
Thứ hai, nghiên cứu, ứng dụng các công trình AI để chống lại rủi ro về AI. AI do con người tạo ra, là sản phẩm của tri thức nên sẽ có biến thể “AI tốt” và “AI xấu”. Để ngăn cản sự phát triển của AI có thể dùng chính AI.
Thứ ba, phát triển AI phải song hành với vấn đề an ninh mạng và an toàn thông tin để tránh việc bị tấn công, chiếm quyền điều khiển gây ra hậu quả nghiêm trọng. Mức độ quan tâm đến an toàn thông tin của các đơn vị chưa đúng mức.
Đối với Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, cần duy trì bảo đảm an ninh an toàn đối với các hệ thống, thực hiện tốt khâu chuẩn bị, thường xuyên thực hiện sao lưu, phục hồi dữ liệu, định kỳ tổ chức diễn tập ứng cứu sự cố để sẵn sàng đối phó với các tình huống tấn công bằng AI có chủ đích.
Tăng cường theo dõi, giám sát quá trình kết nối, chia sẻ thông tin với các đơn vị để sớm phát hiện hành vi bất thường, vi phạm quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quá trình khai thác thông tin, xử lý thông tin.
Cuối cùng, xây dựng và ứng dụng AI trong công tác giám sát log, phân tích lưu lượng mạng, kết hợp giữa học máy và ngôn ngữ tự nhiên để làm tăng độ chính xác khi đưa ra quyết định xử lý sự cố.
" alt=""/>Dùng chính trí tuệ nhân tạo để giảm thiểu rủi ro của 'AI xấu'Ngoài Học viện Báo chí và Tuyên truyền, một số trường cũng yêu cầu thí sinh phải đạt tối thiểu 6.5 IELTS. Chẳng hạn với các chương trình tiên tiến, chương trình chất lượng cao, chương trình định hướng nghề nghiệp và phát triển quốc tế tại Trường ĐH Ngoại thương, điều kiện để thí sinh đăng ký xét tuyển là phải có chứng chỉ tiếng Anh quốc tế IELTS từ 6.5 trở lên cùng các yêu cầu khác về điểm trung bình chung học tập, kết quả thi tốt nghiệp THPT năm 2024.
Trường ĐH Y Dược, ĐH Quốc gia Hà Nộicũng yêu cầu thí sinh có chứng chỉ IELTS đạt từ 6.5 trở lên đối với ngành Y khoa, Răng – Hàm – Mặt và Dược học; 5.5 trở lên đối với các ngành còn lại. Ngoài ra, thí sinh cần có kết quả thi tốt nghiệp THPT 2024 đạt ngưỡng đầu vào đối với ngành xét tuyển theo quy định của Bộ GD-ĐT và của ĐH Quốc gia Hà Nội.
Trường ĐH Y Dược xét ưu tiên thí sinh có điểm IELTS từ 8.0 trở lên theo nguyên tắc xét điểm IELTS từ cao xuống thấp cho đến hết chỉ tiêu. Trường hợp vượt chỉ tiêu, những thí sinh ở cuối danh sách sẽ xét điểm tổng 2 môn trong tổ hợp xét tuyển, trong đó bắt buộc có môn Toán.
Nếu vẫn còn chỉ tiêu, trường sẽ xét đến thí sinh có IELTS dưới 8.0. Điểm xét tuyển bằng tổng điểm IELTS quy đổi cộng với điểm 2 môn trong tổ hợp xét tuyển (môn Toán bắt buộc).
Trong khi đó, nhiều trường chấp nhận IELTS tối thiểu 5.5 - 6.0 như Học viện Ngân hàng, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Học viện Ngoại giao, các trường thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, Trường ĐH Thương mại, Học viện Tài chính, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, Trường ĐH Luật Hà Nội...
Kể từ năm 2017, các chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế bắt đầu trở thành tiêu chí xét tuyển, ưu tiên xét tuyển, xét tuyển thẳng. Ban đầu chỉ có một vài trường “tiên phong”, hiện nay, việc sử dụng chứng chỉ trong tuyển sinh đại học trở nên phổ biến. Hầu hết các trường thường dành khoảng 10 – 15% chỉ tiêu tuyển sinh cho phương thức này.