Đại học Oxford (Anh) |
ĐH Oxford |
ĐH Oxford có truyền thống lâu đời trong đào tạo Y, Dược. Các ngành nổi tiếng ở trường gồm Hóa sinh (Phân tử và Tế bào), Sinh học, Khoa học Y sinh và Y khoa. Mỗi năm khoảng 150 sinh viên được nhận vào khóa học ngành y và Oxford có hai chương trình chính là Cử nhân y khoa và Giải phẫu học.
Một trong những giải Nobel của trường có tác động mạnh đến nền y khoa toàn cầu là giải Nobel vào năm 1945 của Sir Howard Florey W, Sir Ernst Chain và Sir Alexander Fleming cho việc “khám phá ra penicillin và tác dụng chữa bệnh của nó cho các bệnh truyền nhiễm”.
Trường Y Harvard (Mỹ)
|
Trường Y Harvard |
Trực thuộc Đại học Harvard và nổi tiếng là trường đào tạo Y khoa top đầu thế giới, đây sản sinh ra các nhà lãnh đạo chiến lược có ảnh hưởng quốc tế trong lĩnh vực y khoa.
Không giống như hầu hết các trường y tế hàng đầu khác, Trường Y Harvard có thỏa thuận liên kết với 15 bệnh viện và viện nghiên cứu có uy tín nhất trên thế giới. Hơn 10.000 bác sĩ và nhà khoa học hợp tác với trường để đào tạo sinh viên. Trường không chỉ dạy thực hành y học mà còn mở ra cơ hội cho sinh viên nghiên cứu phát triển những kỹ thuật y học thế giới.
Đã từng có 9 người đạt giải Nobel Y học khi đang làm việc tại đây.
Đại học Y khoa Stanford (Mỹ)
|
Đại học Y khoa Stanford |
Ngành Y của Đại học Stanford được đánh giá cao với đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm và cơ sở vật chất hiện đại phục vụ cho việc giảng dạy, nghiên cứu.
Trường đào tạo đầy đủ các ngành nhóm Y, Dược gồm: Y khoa, Vi sinh và miễn dịch học, Thần kinh học, Phẫu thuật thần kinh, Sản phụ khoa, Sinh học phân tử và tế bào, Nhãn khoa, Phẫu thuật chỉnh hình, Tai - Mũi -Họng, Nhi, Tâm thần học và Khoa học hành vi… Đã có 8 người giành giải thưởng Nobel trong 6 thập kỷ qua.
Đại học Cambridge (Anh)
|
Đại học Cambridge |
Ở vị trí số 4 là trường Đại học Cambridge danh giá với điều kiện vào trường khắt khe, cung cấp 2 khóa là Khóa Tiêu chuẩn và Khóa Sau đại học.
Các kỳ học tại trường chỉ kéo dài 8 tuần, ngắn hơn nhiều so với hầu hết các trường đại học và có khối lượng công việc gấp đôi so với các bằng cấp y khoa khác.
Sĩ số lớp của Cambridge thường rất nhỏ, giao động khoảng 20 sinh viên. Ở các lớp tài năng của Cambridge chỉ có 3-4 sinh viên, thậm chí là học 1-1 với giảng viên.
Viện Công nghệ Massachusetts MIT (Mỹ)
|
Viện Công nghệ Massachusetts |
Mặc dù không có trường y khoa riêng, MIT điều hành chương trình MD-PhD chung phổ biến với Trường Y Harvard (HMS), và cũng cung cấp chương trình Harvard - MIT về Khoa học và Công nghệ Y tế (HST), kết hợp cùng với các bệnh viện trong khu vực Boston, tích hợp khoa học, y học và kỹ thuật để giải quyết các vấn đề về sức khỏe con người.
Các ngành liên quan đến Y, Dược của trường gồm Công nghệ Sinh học, Công nghệ Hóa học, Khoa học và Kỹ thuật y tế, Sinh học.
Trường Y khoa Yale - Đại học Yale (Mỹ)
|
Trường Y khoa Yale |
Trường được thành lập vào năm 1810 và chịu trách nhiệm về những cải tiến y tế như chụp X-quang đầu tiên được thực hiện ở Mỹ, sử dụng thành công penicillin đầu tiên trong nước và sử dụng hóa trị liệu ung thư đầu tiên.
Trường Y khoa Yale không được cho điểm hoặc xếp hạng cùng các bạn cùng lớp trong 2 năm học đầu, các kỳ thi được giữ bí mật và việc giảng dạy được thực hiện thông qua các cuộc hội thảo và các lớp học nhỏ.
Trường Y khoa Pritzker - Đại học Chicago (Mỹ)
|
Trường Y khoa Pritzker |
Trường Y khoa Pritzker khai giảng khóa đầu tiên vào năm 1927. Trường cung cấp chương trình giảng dạy sáng tạo và sử dụng mô phỏng y khoa tiên tiến, cấp bằng Tiến sĩ Y khoa toàn thời gian, các chương trình liên kết, giáo dục y khoa sau đại học và giáo dục y tế liên tục.
Tỷ lệ chấp nhận của trường Y chỉ là 1,46%, rất khó để vào.
Vagelos College of Physicians and Surgeons VP&S - Đại học Columbia (Mỹ)
|
Vagelos College of Physicians and Surgeons VP&S |
VP&S là một trong những cơ sở y tế học thuật lâu đời nhất và nổi tiếng nhất trong nước. Năm 2018, VP&S trở thành trường y khoa đầu tiên áp dụng chính sách hỗ trợ tài chính đảm bảo tốt nghiệp cho sinh viên của mình nhờ vào quỹ tài trợ của Tiến sĩ P. Roy và Diana Vagelos. Bệnh viện NewYork-Presbyterian là bệnh viện giảng dạy chính của trường.
Khoa Y Dược - Cao đẳng Hoàng gia London
|
Khoa Y Dược - Cao đẳng Hoàng Gia London |
Là 1 phần nổi tiếng tại Cao đẳng Hoàng Gia London, chương trình học của khoa kéo dài trong 6 năm với 2 năm đầu học các kiến thức căn bản và chính thức thực tập tại bệnh viện từ năm 3.
Khoa tự hào khi có 14 người đoạt giải Nobel trong số các cựu sinh viên của trường, bao gồm cả Alexander Fleming, người đã phát hiện ra penicillin, cũng như ba người đạt Huy chương Fields.
Sinh viên có cơ hội tích lũy kinh nghiệm nghiên cứu của riêng mình thông qua Chương trình Cơ hội Nghiên cứu Đại học (UROP) danh giá.
Đại học Johns Hopkins (Mỹ)
|
Đại học Johns Hopkins |
Đại học Johns Hopkins là trường đại học nghiên cứu đầu tiên được thành lập ở Hoa Kỳ (1876), và Trường Y được thành lập năm 1893. Trường có các cựu sinh viên nổi tiếng bao gồm người phụ nữ tiên phong trong khoa học y khoa Florence R. Sabin; Denton Cooley - bác sĩ phẫu thuật đã thực hiện ca cấy ghép đầu tiên của một trái tim nhân tạo toàn phần) và Walter Dandy - được coi là một trong những người cha sáng lập của phẫu thuật thần kinh.
Từ khi thành lập đến nay, trường đã giành được tổng cộng 19 giải Nobel về y học. Cạnh khu giảng dạy là bệnh viện Johns Hopkins, sinh viên có cơ hội được học tập, thực hành tay nghề tại các bệnh viện trực thuộc và trung tâm y tế khác.
Doãn Hùngtổng hợp
Cô gái Việt đỗ học bổng bác sĩ toàn phần ở Johns Hopkins
Trịnh Mai Chi (1998) tốt nghiệp xuất sắc ngành Hoá sinh, ĐH Wellesley College. Với thành tích học tập cao, kinh nghiệm nghiên cứu ấn tượng, cô vừa giành học bổng toàn phần học bác sĩ tại Johns Hopkins - Trường Y khoa hàng đầu thế giới.
" alt=""/>Top 10 trường đại học đào tạo ngành Y tốt nhất thế giới
Quỹ VinIF mới khởi động được 3 năm nhưng đã và đang góp phần làm đa dạng về loại hình, nguồn lực tài trợ cũng như tạo “đòn bẩy” tích cực tới khoa học Việt Nam.Chật vật tìm kinh phí gặp nguồn đầu tư… “mạo hiểm”
Là chủ nhân của Giải thưởng Tạ Quang Bửu 2018, PGS.TS Trần Đình Phong - Trưởng khoa Khoa học cơ bản và Ứng dụng, trường ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội chia sẻ: “Từng có nhiều DN Việt Nam tìm đến và đề nghị chúng tôi đưa công trình khoa học ra thương mại hóa. Nhưng ngược lại, khi tôi hỏi về việc hợp tác để cùng nghiên cứu và phát triển thành công nghệ lõi, sau đó mới tiến đến mục đích thương mại thì phần lớn trong số họ chưa sẵn sàng.”
|
|
Ấp ủ giấc mơ chế tạo linh kiện quang điện hóa cho sản xuất nhiên liệu Hydro từ nước, nhằm góp phần giúp Việt Nam làm chủ công nghệ năng lượng sạch, PGS. TS. Trần Đình Phong dành hơn 12 năm nghiên cứu lĩnh vực này. Xác định đây là bài toán rất lớn, cần dồn lực vào nghiên cứu cơ bản trong thời gian dài, PGS. Phong cho rằng “Nếu DN đầu tư rồi hỏi ngày mai linh kiện của anh đâu thì rất khó. Vì thế, để triển khai ý tưởng của mình, đôi khi chúng tôi cần những nguồn đầu tư mạo hiểm”.
Giữa lúc tìm thêm nguồn tài trợ để nghiên cứu độ bền của vật liệu, nhằm tạo ra những linh kiện đáp ứng yêu cầu sản xuất công nghiệp, anh cùng cộng sự tìm thấy Quỹ Đổi mới Sáng tạo Vingroup (VinIF). Vượt qua ba vòng đánh giá, dự án do PGS.TS. Trần Đình Phong chủ nhiệm được lựa chọn là một trong 20 nghiên cứu tiêu biểu VinIF tài trợ năm nay.
“Từ ý tưởng cho đến công trình khoa học, bằng phát minh sáng chế là một bước, để ra được sản phẩm ứng dụng lại là một bước nữa. Một dự án 2-3 năm khó lòng tạo ra được sản phẩm như thế, chưa kể đến việc thương mại hóa. Trên thế giới, cả ngàn ý tưởng mới chỉ có một vài ý tưởng được hiện thực hóa. Kể cả họ dừng lại ở bước mô hình hay công bố khoa học thì đó vẫn là những viên gạch xây dựng nền tảng cho các nghiên cứu sau này.” - PGS.TSKH Phan Thị Hà Dương - Giám đốc Điều hành Quỹ VinIF chia sẻ.
Với sự đồng hành của VinIF, bên cạnh nguồn lực tài chính để phát triển công trình khoa học, PGS.TS Phong còn hy vọng có thể kết nối với mạng lưới các đơn vị DN trong nước và quốc tế, hướng tới ứng dụng năng lượng mới vào sản xuất công nghiệp tại Việt Nam.
“Đòn bẩy” cho tiên phong, khác biệt, thực chất
Từ 63 dự án khoa học nhận tài trợ năm 2019 và 2020, đến nay VinIF đã có 163 sản phẩm dạng hệ thống, thiết bị và 159 sản phẩm dạng phần mềm, cơ sở dữ liệu được ra đời. Bên cạnh đó, các nhóm nghiên cứu cũng đã xuất bản 143 công bố khoa học tại các tạp chí Q1 (nhóm những tạp chí khoa học uy tín nhất thế giới) và hội thảo uy tín quốc tế, đăng ký thành công 34 bằng sở hữu trí tuệ trong và ngoài nước.
Bên cạnh nguồn lực tài chính, VinIF còn đồng hành cùng đội ngũ thực hiện dự án trong việc kết nối với mạng lưới chuyên gia tư vấn và truy cập cơ sở dữ liệu lớn. Kết quả nghiên cứu cũng sẽ được VinIF tư vấn đăng ký bảo hộ bằng độc quyền sáng chế và giới thiệu nguồn đầu tư để tiếp tục triển khai ứng dụng vào các sản phẩm, giải pháp thực tiễn.
Theo PGS.TSKH Phan Thị Hà Dương: “VinIF có cơ chế tài chính linh hoạt, hợp lý nhằm giúp các nhà nghiên cứu có điều kiện làm việc tốt nhất, với thủ tục hành chính đơn giản nhất. Điều này xuất phát từ mong muốn giúp các nhà khoa học được làm thật, tiêu đồng tiền thật, được nhận thù lao tương xứng với công sức nghiên cứu. Sau 3 năm triển khai, chúng tôi đã tài trợ gần 450 tỷ đồng cho các dự án, tạo ra 322 sản phẩm.”
Từ góc nhìn của chuyên gia nghiên cứu, TS.Ngô Tất Trung - Giám đốc Trung tâm Tư vấn di truyền và Sàng lọc ung thư - BV Trung ương Quân đội 108 cho biết:“Một trong những điểm đặc biệt trong cách thức tài trợ của VinIF là việc “bỏ qua tất cả những rào cản về thủ tục hành chính, đặt đổi mới sáng tạo lên trên hết.”
Dự án của chúng tôi về “Ứng dụng công nghệ di truyền tiên tiến trong chẩn đoán sớm ung thư gan” đã bước đầu cho kết quả ấn tượng, với một bằng sáng chế đã được gửi đăng ký và một bài báo khoa học Q1 được công bố trước thời hạn. “Nếu không có VinIF, nghiên cứu của chúng tôi sẽ phải chờ rất lâu nữa mới có thể thực hiện” - TS. Trung cho biết.
PGS. TS Huỳnh Quyết Thắng - Hiệu trưởng ĐH Bách Khoa Hà Nội cho biết: “Việc VINIF tài trợ cho các đề tài, dự án góp phần làm thay đổi cơ chế, cách xét chọn, đánh giá các đề tài theo hướng có chất lượng, tinh gọn. Các tác động tích cực này không những ảnh hưởng tới ĐH Bách khoa Hà Nội mà còn tới cộng đồng khoa học, các cơ quan quản lý trong nước.”
Không chỉ tháo gỡ rào cản về tài chính và hành chính, VinIF còn hướng tới tạo điều kiện để nhà nghiên cứu được chủ động về công bố khoa học. Một trong những điểm mới của Chương trình Tài trợ Dự án Khoa học - Công nghệ năm nay là mỗi nhóm nghiên cứu tự đề xuất một danh sách các tạp chí Q1 uy tín dự kiến đăng tải. Hội đồng khoa học sẽ mời ba chuyên gia am hiểu lĩnh vực phản biện, từ đó, Quỹ sẽ thống nhất danh sách với đề tài. Đây được cho là bước đi tiên phong của VinIF, nhằm tôn trọng sự khác biệt trong những công bố thuộc nhiều chuyên ngành hẹp, đồng thời, vượt qua các chỉ số chung để đi vào thực chất năng lực của đội ngũ và ý nghĩa của đề tài.
Xét chọn kỹ lưỡng, ưu tiên tài trợ mũi nhọn, VinIF không chỉ hỗ trợ cá nhân các nhà khoa học, mà còn đang từng bước kiến tạo một hệ sinh thái toàn diện về nghiên cứu - ứng dụng - đào tạo và chia sẻ tri thức. VinIF được kỳ vọng sẽ làm đa dạng hóa các nguồn đầu tư cho khoa học Việt Nam, góp phần thay đổi quan điểm đầu tư và khung tài chính dành cho khoa học.
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy: “Sự thành lập của Quỹ Đổi mới Sáng tạo Vingroup (VinIF) là một tín hiệu đáng mừng cho thấy nền Khoa học - Công nghệ Việt Nam đang đi đúng hướng so với tất cả các quốc gia đã phát triển trên thế giới: ở đó, DN đồng hành cùng Chính phủ trong việc tạo thêm nguồn lực thúc đẩy Khoa học - Công nghệ phát triển. Thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục đề xuất để có nhiều DN khác ở Việt Nam học theo mô hình của tập đoàn Vingroup, hình thành ra những quỹ đầu tư, tài trợ cho nghiên cứu khoa học”. |
Minh Tuấn
" alt=""/>Tài trợ khoa học: Khi thủ tục được dỡ bỏ, sáng tạo sẽ thăng hoa