Tham dự Lễ ký kết có ông Nguyễn Văn Hiếu, Phó Cục trưởng Cục Báo chí (Bộ TT&TT); ông Phạm Thanh Học, Phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội; bà Nguyễn Thị Mai Hương, Phó Giám đốc Sở TT&TT Hà Nội; ông Nguyễn Tấn Phong, Chủ tịch Hội Nhà báo TP.HCM; ông Võ Minh Thành, Phó Giám đốc Sở TT&TT TP.HCM cùng đại diện các sở, ban, ngành liên quan.
Phát biểu tại buổi lễ ký kết, ông Tô Đình Tuân, Tổng biên tập báo Người Lao Động cho biết, việc hợp tác này diễn ra khi cả ba tờ báo có nhiều nét tương đồng với nhau. Trong đó, báo VietNamNet và báo Người Lao Động nằm trong top 10 cơ quan báo chí chuyển đổi số đạt mức xuất sắc trong kết quả khảo sát, đánh giá mức độ trưởng thành chuyển đổi số báo chí năm 2023 của Cục Báo chí; báo Người Lao Động cùng báo Tuổi trẻ Thủ đô có nhiều hoạt động thành công sau mặt báo.
Vì thế, theo ông Tô Đình Tuân, việc ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác các báo sẽ cùng chia sẻ, đồng hành, hỗ trợ lẫn nhau trong bối cảnh hiện nay và đây là lối ra cho các cơ quan báo chí.
“Muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì đi cùng nhau, đây là bước đầu tiên để các báo đi cùng nhau. Việc ký kết giữa một tờ báo tại TP.HCM và 2 tờ báo tại Thủ đô Hà Nội cho thấy khoảng cách không còn ý nghĩa và đây là bước khởi đầu cho những cơ quan báo chí khác cùng chia sẻ, đồng hành với nhau”, ông Tô Đình Tuân chia sẻ.
"Với sức trẻ của Tuổi trẻ Thủ đô, sự cần mẫn của Người Lao Động, sự chuyển đổi mạnh mẽ về công nghệ của VietNamNet, chúng ta sẽ đi đến thành công", Tổng biên tập Người Lao Động Tô Đình Tuân nhận định.
Ông Tuân hy vọng, với việc là tờ báo nằm trong top đầu về chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ, VietNamNet sẽ chia sẻ các kiến thức chuyển đổi số cho báo chí TP.HCM nói riêng và báo chí phía Nam nói chung.
Tại Lễ ký kết, ông Nguyễn Văn Hiếu, Phó Cục trưởng Cục Báo chí (Bộ TT&TT) đánh giá, đây là sự kiện đặc biệt và ý nghĩa, bởi từ trước đến nay, các cơ quan báo chí thường ký kết hợp tác với các cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp, ít khi các cơ quan báo chí ký kết hợp tác với nhau.
Điều đặc biệt nữa là sự ký kết giữa một cơ quan báo chí Trung ương với hai cơ quan báo chí ở hai đầu đất nước là Hà Nội và TP HCM, ba cơ quan có đối tượng phục vụ khác nhau cũng như hoàn toàn tự chủ tài chính.
"Ngoài ra, khi cùng hoạt động trong một lĩnh vực sẽ có sự cạnh tranh, nhưng hôm nay chúng ta cùng hợp tác để phát triển. Nhất là trong bối cảnh báo chí cạnh tranh khốc liệt với mạng xã hội, cách làm báo thay đổi, tôi thấy sự hợp tác này càng ý nghĩa", ông Nguyễn Văn Hiếu nhìn nhận.
Ông Nguyễn Văn Hiếu hy vọng, các báo bên cạnh việc lan toả thông tin của nhau, cần cùng nhau làm tốt công tác truyền thông chính sách. Đây là điều đang được Đảng và Nhà nước quan tâm trong thời gian qua.
" alt=""/>Báo VietNamNet hợp tác với Người Lao Động và Tuổi trẻ Thủ đô![]() |
TS Đỗ Tuấn Minh, Hiệu trưởng Trường ĐH Ngoại ngữ, ĐHQG HN. Ảnh: Lê Văn |
Tại hội thảo nâng cao năng lực sử dụng tiếng Anh trong lớp học cho giáo viên tổ chức mới đây, TS Đỗ Tuấn Minh, Hiệu trưởng Trường ĐH Ngoại ngữ, ĐHQG HN cho biết, trong môi trường sử dụng ngoại ngữ còn nhiều hạn chế như hiện nay thì việc tiếp xúc của học sinh với giáo viên (GV) trong lớp học là cơ hội rất tốt cho học sinh sử dụng ngoại ngữ.
Do đó, nếu như năng lực sử dụng ngoại ngữ của GV đảm bảo thì sẽ là kênh rất tốt để tạo cơ hội cho người học sử dụng và tiếp cận ngôn ngữ mà mình đang học. Từ đó, ông Minh cho rằng, để bồi dưỡng năng lực cho GV thì việc đầu tiên và cần phải nhấn mạnh chính là bồi dưỡng năng lực sử dụng ngôn ngữ trong lớp học.
Ông Châu Văn Thùy, Sở GD-ĐT Quảng Nam cho rằng, kết quả khảo sát giáo viên tiếng Anh thuộc địa bàn tỉnh cho thấy, kỹ năng nghe và nói tiếng Anh của giáo viên yếu hơn các kỹ năng khác. Đây là lý do giáo viên tiếng Anh không sử dụng nhiều tiếng Anh trong lớp học. Từ đó, học sinh cũng không có nhiều cơ hội để nghe tiếng Anh.
Ông Thùy cũng cho rằng, việc bồi dưỡng tất cả các giáo viên đạt chuẩn và giữ được chuẩn là quá trình thường xuyên, lâu dài và tốn kém. Do đó, trước mắt cần tập trung vào bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ sử dụng trong lớp học, tập trung vào các dạng tiếng Anh giao tiếp phổ biến và hiệu quả trong các giờ học.
Trong khi đó, PGS Đỗ Văn Xê, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Cần Thơ cũng cho rằng, trong suốt nhiều chục năm qua, chúng ta đang dạy tiếng Anh bằng tiếng Việt, và đây chính là nguyên nhân chính khiến việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường không hiệu quả.
Xuất phát từ thực trang trên, ông Đỗ Tuấn Minh cho rằng, trong việc bồi dưỡng cho giáo viên tiếng Anh hiện nay có 4 từ khóa cần phải quan tâm: Thường xuyên, Hệ thống, Sát thực và Hiệu quả.
Ông Minh cho biết, hoạt động bồi dưỡng giáo viên hiện nay cần phải tiến hành thường xuyênthay vì theo kiểu mùa vụ như hiện nay, nhất là thường tập trung vào mùa hè.
"Quá cực cho GV khi mà người người nhà nhà hỏi nhau đi nghỉ ở đâu thì họ lại là đi tập huấn ở đâu, bao giờ" - ông Minh nêu vấn đề. "Hoạt động bồi dưỡng GV cần phải được thay đổi để làm sao để làm sao nó trở thành hoạt động diễn ra thường xuyên trong cả năm học".
Bên cạnh đó, nội dung bồi dưỡng giáo viên phải được thiết kế theohệ thốngnhất định. Các chương trình phải được sắp xếp thành các module để người GV sau khi được bồi dưỡng module ấy thì tích lũy tất cả kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ có thể áp dụng trong giảng dạy.
"Cần tránh tình trạng cũng người GV ấy nhưng nội dung bồi dưỡng của năm này lại lặp lại cái mà họ được bồi dưỡng đây đó một vài năm trước. Có khi nội dung bồi dưỡng năm sau dễ hơn, đơn giản hơn bồi dưỡng năm trước" - ông Minh nói.
Thứ ba, ông Minh cho rằng, nội dung các khóa bồi dưỡng cần phải thiết kế sát thực tếhơn.
"Bản thân chúng tôi là những người tổ chức bồi dưỡng GV cũng thấy mình đâu đó chưa làm được cái GV cần. Chúng tôi vẫn tổ chức các khóa bồi dưỡng với nội dung do mình nghĩ ra, mình nghĩ GV cần mà không khảo sát thực tế, đánh giá thực thế sau khóa bồi dưỡng".
Muốn sát với thực tế hơn thì phải làm thế nào? Theo ông Minh, hiện nay lý thuyết đã có, quan trọng là có dám hành động hay không?
Thứ tư, ông Minh cho rằng, nếu những điều trên làm tốt thì hiệu quảcông tác bồi dưỡng giáo viên sẽ tốt lên. Tuy nhiên, ông Minh cho rằng, cần phải thay đổi việc đánh giá công tác bồi dưỡng giáo viên trong đó đặc biệt quan tâm tới khâu "hậu bồi dưỡng".
Hiện nay, ít có đơn vị tổ chức các lớp bồi dưỡng cso cơ hội theo dõi giáo viên của mình khi họ quay trở về địa phương giảng. Hầu hết chỉ dừng lại ở các phiếu đánh giá mà phần lớn điền cho đủ thủ tục hoặc đánh giá theo hướng tích cực dù trong lòng không thấy thoải mái lắm.
Ông Minh cũng cho rằng, các hoạt động thanh tra, dự giờ hiện nay cần phải theo hướng đánh giá, khuyế khích các yếu tố tích cực để các giáo viên sau khi bồi dưỡng có thể thể hiện hay áp dụng những gì mình được học.
Bên cạnh đó, ông Minh cũng đề xuất, cần phải thành lập các đơn vị chuyên trách bồi dưỡng cho giáo viên tiếng Anh để hoạt động này hiệu quả hơn. "Hầu hết các đơn vị đều cử các giảng viên tham gia các lớp bồi dưỡng ên họ chỉ coi đó là công việc thứ 2 bên cạnh công việc giảng dạy ở đại học".
Để có được một trung tâm như vậy, theo ông Minh cần có đủ các yếu tố từ đội ngũ cán bộ cơ hữu, cơ sở vật chất, nội dung và phương thức tổ chức.
Điều quan trọng nhất, theo ôn Minh là giữa các đơn vị tham gia bồi dưỡng cho GV tiếng Anh cần có sự thống nhất với nhau để tạo ra mặt bằng chung trong công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng cho các GV.
Lê Văn
" alt=""/>Mấy chục năm qua chúng ta dạy tiếng Anh bằng tiếng ViệtĐH Cambridge đồng hạng 3 với ĐH Stanford (California)
Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) một lần nữa được nêu tên là trường đại học tốt nhất thế giới. Đứng sau đó là ĐH Harvard – từ vị trí số 4 vào năm ngoái lên vị trí số 2.
Vương quốc Anh có 4 trường đại học trong tốp 10. Tuy nhiên, một trong những thất bại lớn nhất của Anh là Trường London’s Imperial College năm ngoái đứng đồng hạng 2 với Cambridge thì năm nay rớt xuống vị trí thứ 8 trong bảng xếp hạng. Nguyên nhân là do có sự thay đổi trong phương pháp luận để đánh giá các trường đại học.
ĐH Oxford và ĐH College London (UCL) – năm ngoái cùng xếp thứ 5 – thì năm nay Oxford trượt xuống số 6 và UCL tụt xuống số 7.
ĐH Stanford (California) đồng hạng 3 với Cambridge trong khi năm ngoái đứng vị trí số 7. Viện Công nghệ California (Caltech) năm nay xếp số 5, ETH Zurich (Viện Công nghệ liên bang Thụy Sỹ) đứng thứ 9 và ĐH Chicago giành vị trí số 10.
Sự đột phá mạnh nhất là Trường Kinh tế và Khoa học chính trị London (LSE) – leo từ vị trí số 71 lên 35 – cũng là nhờ sư thay đổi trong cách đánh giá của QS.
Trước đây, các bảng xếp hạng của QS thường ưu ái các trường đại học mạnh về nghiên cứu – mà phần lớn là các trường khoa học y tế, nhưng tổ chức này đã thay đổi cách thức để các trường xuất sắc về đào tạo nghệ thuật và nhân văn cũng được công nhận.
Kết quả là Imperial – một cơ sở đào tạo chuyên về nghiên cứu, có số lượng trích dẫn ấn tượng hằng năm – đã rớt xuống vị trí số 8 mặc dù các yếu tố khác rất xuất sắc.
Lần đầu tiên 2 trường đại học của Singapore nằm trong tốp 15, đó là ĐH Quốc gia Singapore (12) và ĐH Công nghệ Nanyang (13).
Ông Ben Sowter – người phụ trách bộ phận nghiên cứu của QS lý giải thêm về việc LSE tăng hạng nhờ thay đổi cách đánh giá: “Việc LSE là một trường đại học đẳng cấp thế giới không có gì ngạc nhiên. Sự thực là họ luôn giữ một vị trí ổn định trong tốp 100 trường của QS suốt thập kỷ qua. Tuy nhiên, trong bất kỳ hệ thống xếp hạng nào lấy trọng tâm là y tế và khoa học thì những điểm mạnh của LSE sẽ không bao giờ được tỏa sáng”.
Ông John O’Leary – một thành viên trong ban cố vấn toàn cầu của QS nói thêm: “Anh vẫn là điểm đến giáo dục thu hút sinh viên quốc tế thứ 2 thế giới sau Mỹ - sở hữu 4 trường trong số 10 trường tốp đầu bảng xếp hạng”.
Mỹ có 49 trường trong tốp 100, tiếp sau đó là Anh với 30 trường, Hà Lan 12 trường, Đức 11 trường, Canada, Australia và Nhật Bản 8 trường, Trung Quốc 7 trường.
London là thành phố duy nhất trên thế giới của 4 trường đại học nằm trong tốp 50. Boston và New York sở hữu 3, trong khi Paris, Sydney, Hồng Kông và Bắc Kinh có 2 trường.